Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa phải được xác định là khâu đột phá trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự

Tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự. Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được ghi nhận tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc ngày 10-12-1948 với nội dung “Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước Tòa án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa”. Tại Việt Nam, yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định; coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc, cụ thể là “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và thể chế hóa các chủ trương của Đảng về tranh tụng tại phiên tòa”
  1. KHÁI NIỆM TRANH TỤNG
Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, nhà xuất bản tư pháp năm 2005 thì: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của phía đối lập”.
“Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của Chủ tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài. Bản chất của tranh tụng là quá trình xác minh, làm rõ công khai và tranh luận giữa các bên dưới sự điều khiển của Tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở để Tòa giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.”
Theo Đại từ tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “Kiện tụng” dùng để “kiện cáo nhau”. Còn theo từ điển Hán – Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận giữa hai bên, yêu cầu Tòa án làm trọng tài.
+ Về mặt lập pháp: Khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận hoặc giải thích trong văn bản quy phạm pháp luật nào ở nước ta từ năm 1945 đến nay. Đến khi có Nghị quyết 08 thì vấn đề này mới được đặt ra.
+ Tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia tố tụng có lợi ích đối trọng nhau thực hiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình, phản bác quan điểm của phía đối lập nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Theo từ điển Luật học thì “Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của Chủ tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài”. Bản chất của tranh tụng là quá trình điều tra công khai và tranh luận giữa các bên dưới sự điều khiển của Tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp Tòa án giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.
Căn cứ dưới góc độ pháp lý, tranh tụng được hiểu là sự tranh luận giữa các bên dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và làm cơ sở cho việc ra phán quyết của Tòa án. Bản chất và mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm Tòa án ra phán quyết là đúng đắn, chính xác.
Theo Tạp chí khoa học pháp lý số 04/2004 khái niệm tranh tụng hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Tranh tụng là  những hoạt động tố tụng được bắt đầu từ khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tại thẩm.
 Theo nghĩa hẹp: Tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên trong vụ án với nhau về chứng cứ, yêu cầu, phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối của mình có căn cứ và hợp pháp
  1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tranh tụng và sự cụ thể hóa nội dung tranh tụng trong BLTTHS 2015
Yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020  nhấn mạnh việc đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động hoạt động tư pháp; đặc biệt khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Với yêu cầu đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự (Điều 26). Đây là tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng, bởi xét xử được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa, bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế:
- Một là: Quy định đầy đủ các quyền và các cơ chế để đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
- Hai là: Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng hình sự.
- Ba là: Quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo đảm việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa.
- Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử.
Hiện thực hóa các quy định về tranh tụng của BLTTHS 2015 vào thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, tại VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò chủ động, tích cực của Kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm làm rõ, chứng minh về chủ thể và hành vi phạm tội, nhằm làm rõ có hay không có sự việc tội phạm, tránh làm oan người vô tội, cũng như bỏ lọt tội phạm. Cụ thể trong một số vụ án, nhờ sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Viện cấp cao cũng như tinh thần “thượng tôn pháp luật”, đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng đối với mọi tội phạm và người phạm tội mà Kiểm sát viên đã thành công trong việc tranh tụng, giúp làm sáng tỏ vụ án, và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, nghiêm minh, bảo vệ công lý.
VD 1: Vụ án Phạm Công Danh và đồng phạm, phạm tội “Vi phạm các quy định về cho vay, lừa đào chiếm đoạt tài sản” trước khi XXPT, Tòa án cấp cao và VKS cấp cao thống nhất HĐXX dành nhiều thời gian để KSV tập trung hỏi phần liên quan đến hành vi của Tập đoàn Tân Hiệp Phát và qua xét hỏi, KSV đã kiến nghị xem xét trách nhiệm hình sự của một số đối tượng bị cấp sơ thẩm bỏ lọt. Tương tự, vụ án Nguyễn Minh Hùng Công ty CP VN Pharma cùng 09 đồng bọn “Buôn lậu” thuốc chữa bệnh ung thư trị giá tương đương 5,3 tỷ đồng và “Làm giả con dấu, tài liệu, cơ quan, tổ chức”, KSV tham gia phiên tòa đã xét hỏi, tranh tụng nhằm làm rõ tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị hủy án sơ thẩm để đtra lại theo đúng tội danh, người phạm tội.
VD2: Vụ án Nguyễn Hải Dương và đồng phạm “Giết người” “Cướp tài sản”. Bị cáo Trần Đình Thoại cho rằng không phạm tội “Giết người” với bị cáo Dương, không trực tiếp tham gia vụ án. Tại phiên tòa, KSV đã xét hỏi, làm rõ đặc trưng, vai trò đồng phạm của người giúp sức, làm rõ lý luận tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội. Kết quả tranh tụng, bị cáo Dương và bị cáo Thoại khai đã bàn bạc thực hiện hành vi phạm tội, cây dao Thái Lan bị cáo Dương dùng làm công cụ gây án là do bị cáo Thoại mua đưa cho Dương, bị cáo Thoại khai đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, nhưng bị cáo không tố giác tội phạm với cơ quan công an và bỏ mặc cho đồng phạm thực hiện tội phạm. Từ kết quả đó, KSV kết luận nêu quan điểm là bị cáo Thoại đồng phạm với bị cáo Dương về tội “Giết người”.
VD3: Vụ án La Phúc Thành, phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (Hậu Giang). Tại phiên tòa, bị cáo Thành không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo khai vào ngày 28/7/2013, sau khi uống rượu tại nhà ông Hiệp, bị cáo cùng với Trần Chí Trung, Đào Thái Bình và Lê Khánh Duy đi hát karaoke tại quan Thịnh Phát. Đến hơn 17h cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô chỏ Trần Chí Trung đi về nhà. Trên đường đi, sau khi đổ xăng xe mô tô tại cây xăng Thịnh Phát, bị cáo giao xe mô tô cho bị cáo Trung điều khiển chở bị cáo đi về hướng UBND xã Long Trị A và xảy ra va chạm với xe mô tô gây tai nạn cho anh Lê Minh Đảo. Tại phiên tòa, KSV đã tiến hành hỏi nhân chứng trước để củng cố chứng cứ xác định bị cáo có hoặc không có hành vi điều khiển xe mô tô gây tai nạn cho bị hại, xét hỏi làm rõ những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo và những chứng cứ mà bị cao cung cấp. Từ đó, có cơ sở  để xác định bị cáo La Phúc Thành không có chứng cứ ngoại phạm trong vụ án này. Từ đó, đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Thành 03 năm 06 tháng tù.
  1. Một vài kỹ năng tranh tụng mà Kiểm sát viên cần chú ý khi tham gia phiên tòa hình sự:
  Một là, bị cáo ko thừa nhận phạm tội theo Cáo trạng truy tố của VKS, kết luận trong luận tội của KSV. Trong trường hợp này, KSV cần phân tích lý luận về cấu thành tội phạm, đánh giá hành vi của bị cáo, động cơ, mục đích, hậu quả thiệt hại đã gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; viện dẫn các bút lục chứa đựng các chứng cứ xác đáng thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã đủ để khẳng định hành vi của bị cáo là hành vi phạm tội được quy định trong BLHS mà VKS đã viện dẫn để truy tố, KSV đã kết luận, đề nghị trong luận tội. Những lý do mà bị cáo, người bào chữa đưa ra như chưa đủ tuổi chịu TNHS, mất năng lực TNHS, hành vi chưa đến mức chịu TNHS hoặc những tình tiết loại trừ TNHS khác… là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật hình sự.
Hai là, bị cáo, người bào chữa thừa nhận bị cáo phạm tội nhưng phạm tội khác nhẹ hơn so với tội mà VKS truy tố, kết luận, đề nghị thay đổi tội danh; bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không đồng ý với tội danh mà VKS đã truy tố, Kết luận, cho rằng bị cáo phạm vào tội khác nặng hơn, đề nghị thay đổi tội danh: Trường hợp này, KSV phân tích lý luận cấu thành tội phạm, đánh giá hành vi khách quan của bị cáo, hậu quả thiệt hại, động cơ, mục đích phạm tội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, viện dẫn các bút lục chứa đựng các chứng cứ… Những yếu tố đó khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội mà VKS đã truy  tố, việc thay đổi tội danh theo yêu cầu của bị cáo, người bào chữa, bị hại hoặc người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là ko có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật.
Ba là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng điều luật mà VKS đã truy tố nhưng phạm vào khoản khác nhẹ hơn so với khoản mà VKS đã truy tố: Trường hợp này, VKS ngoài việc phân tích các dấu hiệu của tội phạm còn phân tích cụ thể hành vi của bị cáo đã gây ra thiệt hại hoặc các tình tiết khác là căn cứ để định khung hình phạt như: Mức độ thiệt hại, các tình tiết tăng nặng định khung như: Phạm tội có tính chất côn đồ, có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm hay dùng hung khí nguy hiểm… để khẳng định khoản truy tố của VKS là có căn cứ và đúng pháp luật. KSV có thể vận dụng các văn bản dưới luật như Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC để chứng minh khoản truy tố của VKS là đúng đắn.
Bốn là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng tội danh, điều khoản của VKS đã truy tố nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đề nghị HĐXX tạm hoãn phiên tòa, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung: Trường hợp này, KSV phải tranh luận rõ xem những vi phạm đó là những vi phạm gì? KSV phân tích những quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản dưới luật để xác định xem những vấn đề đó có phải là vi phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không? Nếu có vi phạm thì KSV đánh giá mức độ, tính chất vi phạm đó để  xác định đây có phải là căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hay không, hay có thể khắc phục được tại phiên tòa. Trên cơ sở đánh giá, nhận xét đó, KSV thể hiện quản điểm của mình về yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trường hợp bị cáo cho rằng quá trình điều tra, truy tố, ĐTV, KSV đã có những hành vi vi phạm như: Dụ cung, mớm cung, ép cung thì KSV có thể đề nghị HĐXX triệu tập ĐTV, KSV đến Tòa án để tham gia đối chất hoặc trình bày những nội dung có liên quan. Trong trường hợp XĐ có vi phạm tố tụng, KSV phải xem xét đánh giá kỹ lưỡng từng dạng vi phạm, nếu vi phạm nhỏ ko ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án thì KSV phát biểu quan điểm ko đồng ý với yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đề xuất biện pháp khắc phục vi phạm. Trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà xét thấy cần phải điều tra, làm rõ, bảo đảm tính khách quan của vụ án, thuộc các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì KSV phải đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa, trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Năm là, ko đồng ý với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, đề nghị loại bỏ hoặc tăng thêm tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Đây là trường hợp bị cáo, người bào chữa ko đồng ý với các tình tiết tăng nặng đề nghị áp dụng đối với bị cáo, đề nghị loại bỏ và đề nghị tăng thêm tình tiết giảm nhẹ. Đối với người bị hại hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự lại cho rằng cần tăng thêm tình tiết tăng nặng và cần loại bỏ tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Trong trường hợp này, KSV cần phải đối đáp, phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo, hành vi vi phạm của bị hại, các tình tiết tiết khác có liên quan, viện dẫn các quy định của BLHS, BLTTHS, các văn bản dưới luật để xác định, khẳng định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà VKS áp dụng là đúng đắn, có căn cứ. Những lý do, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà các bên đưa ra là ko có căn cứ, ko phù hợp với nội dung vụ án. Đối với những tình tiết khác theo quy định tại khoản 2 Đ.51 BLHS mà bị cáo hoặc người bào chữa đưa ra đề nghị áp dụng làm tình tiết giảm nhẹ thì KSV phải tranh luận, xác định tính chính xác, tùy từng trường hợp cụ thể, có thể thừa nhận hoặc có thể bác bỏ, ko chấp nhận.
Sáu là, không đồng ý với loại và mức hình phạt mà KSV đề nghị: Bị cáo, người bào chữa thường cho rằng loại và mức hình phạt mà đại diện KSV đề nghị là quá nặng đối với bị cáo, không tương xứng với hành vi phạm tội, không phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước, cần giảm hình phạt; bị hại hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự lại cho rằng loại và mức hình phạt như vậy là quá nhẹ đối với bị cáo, cần tăng hình phạt. Trường hợp này, KSV phải đối đáp, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội căn cứ vào khách thể bị xâm hại, đối tượng tác động, phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi, hình thức và mức độ lỗi, mức độ thiệt hại đã gây ra, các biện pháp và khả năng  khắc phục thiệt hại, các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân bị cáo, so sánh với mức hình phạt của điều luật áp dụng để kết luận, khẳng định loại và mức hình phạt mà KSV đề nghị là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Bảy là, ko đồng ý với mức bồi thường thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật chứng do KSV đề nghị: Đối với bị cáo và người bào chữa thường cho rằng mức BTTH đối với bị cáo như vậy là quá cao, không hợp lý hoặc hình thức xử lý vật chứng như vậy là không phù hợp, yêu cầu giảm bớt mức bồi thường thiệt hại hoặc trả lại vật chứng, tài sản cho bị cáo. Đối với bị hại hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự lại cho rằng mức bồi thường thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đề nghị là không hợp lý, quá ít, cần phải tăng mức bồi thường, tịch thu vật chứng… trường hợp này, KSV đối đáp, phân tích các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, các văn bản dưới luật về BTTH dân sự trong vụ án hình sự, về xử lý vật chứng để khẳng định mức bồi thường thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đưa ra là hợp lý, có căn cứ và đúng pháp luật. KSV cần lưu ý, mặc dù luận tội thể hiện quan điểm cuối cùng của VKS về việc giải quyết vụ án, KSV tham gia tranh luận, đối đáp cần bảo vệ được quan điểm đó, tuy nhiên, nếu quá trình tranh luận phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án hoặc thay đổi quan điểm, đường lối xử lý vụ án mà không thể làm rõ, kết luận được khi tranh luận thì KSV phải đề nghị HĐXX trở lại phần xét hỏi và có thể đề nghị hoãn phiên tòa để tiến hành điều tra, xác minh.
  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA KSV TẠI PHIÊN TÒA
4.1 Nâng cao kỹ năng công tác chuẩn bị tham gia phiên tòa của KSV
Để chất lượng tranh tụng đạt hiệu quả cao, thì công tác chuẩn bị tham gia phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng, KSV phải thực hiện, nghiêm túc đầy đủ các quy định theo Quy chế thực hành quyền công tố và KSXX hình sự, KSV được phân công tham gia phiên tòa phải nghiên cứu kỹ HSVA, phải có sự chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự kiến tình huống tranh luận, dự thảo kết luận, dự kiến nội dung đối đáp làm tiền đề cho hoạt động xét hỏi tại phiên tòa, để làm cơ sở đối đáp, tranh luận làm sáng tỏ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, bồi thường TNDS, góp phần làm cho Tòa án ra những phán quyết đúng người, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, công bằng trong quyết định hình phạt, đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
4.1.1 Về lập hồ sơ kiểm sát
Phải thực hiện đúng Quyết định số 590/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05/12/2014 của Viện trưởng VKSNDTC, về lập hồ sơ kiểm sát, nghiên cứu hồ sơ phải có hệ thống, khoa học, đảm bảo đầy đủ tài liệu, chứng cứ về nội dung, và phải được sắp xếp theo trình tự như: Tập dự thảo kết luận, báo cáo án; tập tố tụng; tập chứng cứ, tập lời khai, tự khai, biên bản hỏi cung… đối với vụ án kêu oan, vụ án phức tạ, vụ án tham nhũng có sự chỉ đạo của Trung ương, KTV, KSV cần thiết phải lập thêm bản hệ thống chứng cứ buộc tội, gỡ tội, kịch bản phiên tòa. Qua đó tăng cường trách nhiệm của KSV trong việc nghiên cứu lập hồ sơ kiểm sát.
4.1. 2 Về xây dựng đề cương xét hỏi
Thực hiện nghiêm túc Quy chế công tác thực hành QCT, KSXXHS ban hành kèm theo QĐ 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC “Khi thực hành QCT, KSXX tại phiên tòa, KSV bắt buộc phải xây dựng đề cương xét hỏi” (Đ.24) để chuẩn bị tham gia phiên tòa. Yêu cầu bản đề cương xét hỏi bao gồm những nội dung cơ bản như: xét hỏi bị cáo có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội, năng lực TNHS, tuổi (Chủ thể của tội phạm); Có lỗi (cố ý, vô ý) hay không có lỗi (mặt chủ quan); hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, nguyên nhân, điều kiện phạm tội (mặt khách quan của tội phạm), mối quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ bị các hành vi phạm tội xâm hại đến (khách thể của tội phạm), các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, Đồng phạm, vai trò của đồng phạm; TNDS…
4.1.3 Về dự kiến chuẩn bị tình huống xét hỏi để tranh luận, đối đáp.
Khi nghiên cứu hồ sơ, KSV phải dự kiến tình huống phát sinh có thể xảy ra tại phiên tòa, như bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo kêu oan hay im lặng từ chối khai báo, khai báo gian dối, dự kiến tình uống xét hỏi về tình huống Luật sư bào chữa vụ án theo hướng bị cáo không phạm tội như án sơ thẩm đã tuyên mà phạm tội khác nhẹ hơn, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, giảm mức bồi thường, vụ án còn có đồng phạm khác, hủy án điều tra lại…
4.2 Về kỹ năng tranh tụng của KSV
Để nâng cao kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tòa phúc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo quy định của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, BLTTHS 2015 cần thực hiện những giải pháp như sau:
Một là, nhận thức đầy đủ tính chất, phạm vi của XXPT quy định tại Đ.230 BLTTHS. Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong XX của Tòa án cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn của các tình tiết thực tế được xác định trong bản án, tức là đồng thời kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án. Phạm vi XXPT, Tòa án cấp phúc thẩm là xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Đ.241 BLTTHS. Đối với những phần không bị kháng cáo, kháng nghị thì chỉ xem xét đối với những nội dung có thể dẫn đến việc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Đối với vấn đề bồi thường thiệt hại, vấn đề dân sự thì không được xem xét nếu không có kháng cáo, kháng nghị mặc dù có cơ sở để giảm mức bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có quyền xem xét về phần thủ tục tố tụng trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ngay cả khi không có kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện có vi phạm pháp luật trong phần không có kháng cáo, kháng nghị thì không được làm xấu tình trạng của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải xử y án đồng thời kiến nghị đến Tòa án tối cáo, Tòa án cấp cao để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ, phúc thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung.
Hai là, KSV phải nắm chắc nội dung kháng cáo, kháng nghị, nội dung vụ án, kết quả XX của cấp sơ thẩm, chứng cứ buộc tội, gỡ tội, tình tiết tăng năng, giảm nhẹ TNHS, bồi thường dân sự. KSV phải theo dõi chặt chẽ diến biến phiên tòa, ghi chép đầy đủ nội dung, diễn biến quá trình xét hỏi của HĐXX để chủ động tham gia xét hỏi, để chứng minh và khẳng định các tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra có trong HSVA đã đảm bảo tính hợp pháp, tính khách quan, tính liên quan của tài liệu, chứng cứ theo Đ.63 BLHS, câu hỏi của KSV phải rõ ràng, ngắn gọn, dễn hiểu và phải trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết nội dung của vụ án, nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Mỗi KSV phải tích cực nghiên cứu, học tập để nắm cững  các quy định của pháp luật, nhất là pháp luật về hình sự và TTHS, các văn bản luật có liên quan, các hướng dẫn áp dụng pháp luật. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng diễn đạt, kỹ năng trình bày bản kết luận giải quyết vụ án tại phiên tòa, kỹ năng đối đáp, khả năng phản xạ linh hoạt trước các nội dung mới phát sinh tại phiên tòa, kỹ năng ứng xử tại phiên tòa phù hợp theo Quyết định 46/QĐ-VKSTC ngày 20/02/2017 của VKSNDTC ứng xử có văn hóa, bảo đảm tôn trọng sự điều khiển của chủ tọa, tôn trọng của những người tham gia tố tụng phiên tòa.
Ba là, nâng cao kỹ năng xét hỏi cho KSV về phương pháp, cách đặt câu hỏi, chiến thuật xét hỏi đối với bị cáo (bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo im lặng từ chối khai báo, bị cáo khai báo gian dối); đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người địa diện hợp pháp của họ, xét hỏi người làm chứng, người giám định. Khi xét hỏi KSV phải biết cách đặt câu hỏi, sử dụng ngôn từ xét hỏi dễ hiểu, rõ ràng không đa nghĩa, không sử dụng tiến lóng, không đặt câu hỏi mớm cung, dụ cung. Về phạm vi xét hỏi, KSV hỏi về những nội dung HĐXX chưa hỏi hoặc hỏi rồi nhưng còn thiếu hoặc chưa rõ, hỏi về những nội dung còn mâu thuẫn và hỏi để chuẩn bị cho đối đáp tranh tụng (hỏi để nhấn mạnh một lần nữa các chứng cứ đã có trong hồ sơ để khẳng định giá trị của chứng cứ đó, phục vụ cho hoạt động đối đáp, tranh luận sau đó…). Nâng cao kỹ năng xét hỏi cho KSV theo từng nhóm, loại tội phạm như: Tội phạm xâm phạm ANQG, giết người, cố ý gây thương tích…
Bốn là, tăng cường vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo các đơn vị nghiệp vụ của ngành trong duyệt xây dựng đề cương nội dung dự thảo kế hoạch xét hỏi, để nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa đối với từng loại tội, nhóm tội cụ thể là yêu cầu quan trọng đầu tiên. Sắp xếp, bố trí KSV trực tiếp nghiên cứu HSVA và tham gia phiên tòa phúc thẩm, nhất là vụ án lớn, phức tạp, vụ án có nhiều bị cáo, vụ án tham những XX có sự chỉ đạo của Trung ương.
Quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ KSV, có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ pháp chế, có phẩm chất đạo đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tụy và tự giác cao với công việc. Thường xuyên tập huấn, rèn luyện kỹ năng xét hỏi, đối đáp, tranh tụng tại phiên tòa theo hướng chuyên sâu. Tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, tổ chức hội thảo khoa học nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng cho KSV.
Năm là: Tăng cường trách nhiệm cho KSV đáp ứng nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp theo BLTTHS 2015, khi làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của Tòa án tại phiên tòa hình sự, đồng thời VKS cần tăng cường tính độc lập của KSV tại phiên tòa nhiều hơn nữa, tính độc lập của KSV tại phiên tòa trên nguyên tắc tậ trung thống nhất và chỉ tuân theo pháp luật, KSV phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Sáu là, thường xuyên tổ chức phiên tòa rút kịnh nghiệm, là giải pháp hữu hiệu giúp KSV nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử vụ án hình sự. Việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm là biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cho KSV rèn luyện kỹ năng xét hỏi, đối đáp, tranh luận từ thực tiễn các phiên toa, khi tổ chức  các phiên tòa rút kinh nghiệm cần lựa chọn đa dạng về tội danh, vụ án có nhiều bị cáo, tính chất phức tạp, vụ án phản cung, kêu oan. Lãnh đạo Viện cần kiểm tra việc xây dựng kịch bản phiên tòa, đề cương xét hỏi theo nhiều phương pháp, với các chiến thuật xét hỏi đa dạng để người tham gia phiên tòa rút kinh nghiệm học tập, qua đó nâng cao kỹ năng tranh tụng của KSV.
Bảy là, cơ sở vật chất được trang bị tương xứng nhiệm vụ công tác cho ngành KS nói chung và cho KSV thực hành thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử nói riêng là đk cần thiết để KSV làm việc, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế và lĩnh vực tư pháp quốc tế.
Có thể nói, với việc Hiến định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” và việc cụ thể hóa nội dung nguyên tắc này trong các thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã phản ánh bước tiến của nền tư pháp nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất, có tính quyết định đối với hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự, mở rộng và tăng cường tính dân chủ, công khai, công bằng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân, tạo ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để họ thực hiện quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa của bị can, bị cáo, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư, giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự trong tình hình mới.
Nam Hưng
Viện 2 - Viện cấp cao 3