Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự liên quan đến đất đai theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Viện cấp cao 3) đã phát hiện nhiều vi phạm và ban hành kháng nghị. Trong đó, có vụ án điển hình về “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Bùi Quốc H với bị đơn là ông Trần Văn B.
Nguyên đơn ông H khởi kiện yêu cầu ông B di dời tài sản trên đất trả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế là 576,7m2 vì cho rằng ông H đã nhận chuyển nhượng phần đất này từ ông Huỳnh Anh Th, bà Nguyễn Thị Hường vào ngày 19/01/2015 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) cho ông H.
Bị đơn ông B cho rằng nguồn gốc phần đất tranh chấp trước đây là do ông B nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Vũ Văn Th và bà Phạm Thị M vào năm 2006 và đã được cấp Giấy CNQSDĐ ngày 03/6/2015. Từ khi nhận chuyển nhượng đất thì vợ chồng ông B đã sử dụng ổn định, lâu dài, không tranh chấp và bờ ranh đất từ khi ông B nhận chuyển nhượng đến nay vẫn còn. Do đó, ông B không đồng ý trả diện đất 576,7m2 cho ông H, và ông B có yêu cầu phản tố hủy Giấy CNQSDĐ của ông H đối với diện tích đất ông B đang sử dụng thực tế là 472,5m2.
Bản án sơ thẩm tuyên không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H. Ông H kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Viện cấp cao 3 ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định với các lý do:
Bản án sơ thẩm nhận định đất của ông B được cấp Giấy CNQSDĐ thửa đất số 37 với diện tích là 9.625,6m2, qua đo đạc thực tế thì ông B hiện đang sử dụng phần diện tích là 9.025,1m2 nếu cộng thêm phần đất tranh chấp 576,7m2 thì ông B sử dụng diện tích đất không nhiều hơn so với diện tích đất được cấp để từ đó làm căn cứ không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H là không đúng. Vì theo Mảnh trích đo đạc địa chính ngày 29/10/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh BL thể hiện phần đất ông B đang sử dụng thực tế có diện tích là 9477,8m2 nằm trong nhiều thửa đất khác nhau, cụ thể:
Phần đất ông B đang sử dụng, diện tích 9477,8m2 (không bao gồm phần đất tranh chấp), trong đó: 9.025,5m2 thuộc thửa đất số 37 tờ bản đồ số 2; 135,4m2 thuộc thửa đất số 103, tờ bản đồ số 2; 17,3m2 thuộc thửa đất số 52, tờ bản đồ số 2 và 300m2 thuộc thửa đất số 209, tờ bản đồ số 2.
Như vậy, ông B được cấp Giấy CNQSDĐ thửa đất số 37 với diện tích là 9.625,6m2 nhưng theo Mảnh trích đo trên thì phần đất ông B đang sử dụng 9477,8m2 thuộc nhiều thửa đất khác nhau (thửa đất số 37, 103, 52, 209) nhưng Tòa án chưa xác minh làm rõ nguồn gốc các thửa đất số 103, 52, 209 này được tách ra từ thửa đất số 37 của ông Biển được cấp Giấy CNQSDĐ không, hay của chủ sử dụng khác. Vì đối chiếu phần đất thực tế ông B đang sử dụng diện tích 9477,8m2 nếu cộng thêm 582,2m2 đất tranh chấp thì tổng diện tích đất ông B đang quản lý, sử dụng là 10,060m2, đất ông B dư ra 434,5m2. Còn ông H được cấp Giấy CNQSDĐ thửa đất số 32 là 23.563,4m2 nhưng thực tế chỉ sử dụng 20.586,3m2 (không bao gồm phần đất đang tranh chấp) thiếu so với Giấy CNQSDĐ được cấp.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã có thiếu sót khi không xác minh làm rõ các thửa đất ông B đang sử dụng, không đưa các chủ thể đang quản lý, sử dụng các thửa đất số 103, 52, 209 vào tham gia tố tụng với tư cách là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm căn cứ giải quyết vụ án là chưa đúng.
Mặt khác, tài sản trên đất tranh chấp có 01 phần nhà của ông B chiều dài 02m, chiều ngang 01m, nhà có kết cấu bằng tường khung sườn bê tông cốt thép; một phần nhà sau của ông B có chiều dài 04m, ngang 1,5m, nhà có kết cấu mái tôn, vách thiếc, khung sườn cây gỗ địa phương. Tuy nhiên, vị trí tài sản gắn liền với đất không được mô tả cụ thể trên Mảnh trích đo địa chính ngày 29/10/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường là thiếu sót, khó khăn trong việc thi hành án.
Kiểm sát nghiên cứu vụ án
Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập xác minh và làm rõ đầy đủ các chứng cứ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục, nên tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện cấp cao 3 đã đề nghị và được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 3, tuyên hủy Bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Viện kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình tổ chức họp rút kinh nghiệm sau xét xử (Ảnh: Hoàng Ân)
Vi phạm nêu trên cùng các vi phạm khác của Tòa án hai cấp trong khu vực đã được Viện cấp cao 3 ban hành Thông báo rút kinh nghiệm để Viện kiểm sát nhân dân các địa phương trong khu vực phía Nam nghiên cứu rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp./.
Chử Thị Định – Viện cấp cao 3