Viện cấp cao 3 quyết tâm bảo vệ kháng nghị để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công lý được thực thi.

Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, trong hoạt động tố tụng, Ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Viện cấp cao 3) nói riêng không chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố mà còn có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Để thực hiện được chức năng này, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là thực hiện quyền kháng nghị đối với những Bản án, quyết định có dấu hiệu vi phạm pháp luật, không bảo đảm tính khách quan, công bằng và quan trọng hơn, phải đấu tranh đến cùng để bảo vệ kháng nghị của mình, đảm bảo pháp luật được thực thi đúng đắn.

Trong thời gian qua, Viện cấp cao 3 đã ban hành nhiều kháng nghị, thế nhưng quá trình bảo vệ kháng nghị không tránh khỏi những khó khăn như áp lực từ dư luận, sự cản trở từ các bên liên quan, hoặc những vướng mắc về pháp lý liên quan đến quan điểm giải quyết vụ án, vì vậy, có những kháng nghị khi đưa ra xét xử không được Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, Viện cấp cao 3 đã kiên trì, quyết tâm bảo vệ công lý, kịp thời báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành kháng nghị và được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận. Sau đó, hồ sơ được chuyển về Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm lại, kháng nghị của Viện  cấp cao 3 đã được chấp nhận, điển hình là vụ án ông Nguyễn Thế Anh T. kiện Ủy ban nhân dân Quận C, Thành phố H.

Nội dung vụ án thể hiện: Ngày 04/01/2014, ông Nguyễn Thế Anh T. ký hợp đồng công chứng số 151 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất Lúa của hộ bà Trần Thị T. với diện tích 4.603m² tại phường LT., Quận C, Thành phố H. Trong đó có 3.393m² thuộc thửa đất số 93 và thửa đất số 94, cùng tờ bản đồ số 11. Hộ bà T. được công nhận quyền sử dụng đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số N 184948 ngày 30/5/2001, riêng phần đất biền rạch xung quanh phần đất ông T. nhận chuyển nhượng không được công nhận. Ngày 25/5/2016, ông T. tiến hành san lấp với diện tích đất biền rạch nêu trên và lập hàng rào xung quanh phần đất này nên xảy ra tranh chấp với bà Nguyễn Thị H. Căn cứ vào Biên bản hòa giải do UBND phường LT. lập ngày 12/01/2017, UBND quận C, Thành phố H. cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 085738 ngày 23/01/2018 (gọi tắt GCN số CK 085738), đối với diện tích 1.510m² đất trồng cây hàng năm cho bà Nguyễn Thị H., bao gồm cả phần diện tích đất biền rạch đang tranh chấp với ông T. Ngày 03/7/2018, bà Nguyễn Thị H. được Ủy ban nhân dân Quận C., Thành phố H. chấp nhận chuyển mục đích sử dụng 1.129,5m²/1.510m² đất trồng cây hàng năm sang đất ở và được cấp đổi GCNQDĐ số CL 080879. Ông T. không đồng ý về việc cấp GCNQSDĐ số CL 080879 cho bà H., nên đã kiến nghị và được UBND quận 9, TP H. trả lời tại Công văn số 3568/UBND-TNMT ngày 14/11/2019 có nội dung không chấp nhận kiến nghị của ông T. Ông T. khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 080879 (CH 12122) ngày 03/7/2018 do Ủy ban nhân dân Quận C, Thành phố H. cấp cho bà Nguyễn Thị H.

- Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1908/2020/HC-ST ngày 09/11/2020 của  TAND Thành phố H. đã quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T. 

- Ngày 09/12/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (Viện cấp cao 3) ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/KNPT-VC3-V3 đối với Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.

- Ngày 20/11/2020, người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T. kháng cáo đối với Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.

- Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 424/2021/HC-PT ngày 22/11/2021 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/KNPT-VC3-V3 ngày 09/12/2020 của Viện trưởng Viện cấp cao 3 và kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Ngày 18/7/2022, Viện trưởng Viện cấp cao 3 có Báo cáo số 28/BC-VKS-V3 đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao ban hành kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm trên.

- Ngày 28/5/2024, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/QĐ-VKS-HC kháng nghị đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 424/2021/HC-PT ngày 22/11/2021 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ngày 08/7/2024, TAND tối cao ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 17/2024/HC-GĐT chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao, hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 424/2021/HC-PT ngày 22/11/2021 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ cho TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại vụ án theo đúng qui định của pháp luật.

- Sau ba lần hoãn phiên toà, tại phiên toà xét xử phúc thẩm ngày 25/3/2025, Đại diện Viện cấp cao 3 là Kiểm sát viên cao cấp Vũ Thanh Sơn đã phát biểu quan điểm của Viện cấp cao 3 với các lý lẽ như sau:

Căn cứ vào Công văn số 407/UBND ngày 22/10/2019 của UBND phường LT. thì phần đất bà Nguyễn Thị H. tranh chấp với ông Nguyễn Thế Anh T. và phần đất bà H. được UBND Quận 9 cấp Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 080879 (CH 12122) ngày 03/7/2018 là cùng một vị trí. Căn cứ vào các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà H. được UBND Quận C., Thành phố H. cấp GCNQSDĐ số CL 080879 ngày 03/7/2018 diện tích 1.510m² (trong đó có 1.129,5m² đất ở, 380,5m² đất trồng cây lâu năm); trên cơ sở được phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ GCNQSDĐ số CK 085738 do UBND Quận C. cấp cho bà H. ngày 23/01/2018. Nguồn gốc diện tích đất 1.510m² nêu trên thuộc một phần thửa đất số 749 và thửa đất số 859 (Tài liệu 299/TTg). Trong đó, thửa đất số 749, tờ bản đồ số 07, có diện tích 6.147m², loại ruộng đất mùa do bà H. đăng ký, canh tác; ngày 28/02/1997, vợ chồng bà H. và các con đã chuyển nhượng bằng giấy viết tay phần diện tích đất này cho ông Lê Quang B. với giá 32 cây vàng/1.000m² đất. Thửa đất số 859, tờ bản đồ số 07, có diện tích 20.648m², loại ruộng đất LNK do UBND xã (nay là phường) LT. quản lý với hình thức tạm giao (theo Tài liệu 299/TTg). Theo tài liệu 02 (năm 1992), tờ bản đồ số 11 là “rạch”; tài liệu năm 2003 phần đất trên thuộc một phần thửa đất số 63 do UBND phường LT. quản lý, một phần thửa đất số 59, tờ bản đồ số 37 cập nhật tên bà Trần Thị T. Tại phiên tòa phúc thẩm này 22/11/2021, đại diện người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện thừa nhận theo tài liệu 299, thửa đất số 859 do Ủy ban nhân dân xã đăng ký, hình thức tạm giao “do thời điểm năm 1988, đất chưa có người dân đăng ký thì ghi là tạm giao”. Do đó, việc UBND phường LT. và UBND Quận C., Thành phố H. xác nhận tại Văn bản số 3568/UBND-TNMT ngày 14/11/2019 có nội dung: “Phần rạch này do bà H. trực tiếp quản lý, sử dụng, không thuộc quỹ đất công do UBND phường LT. quản lý” là không đúng thực tế. UBND phường LT. xác nhận “hộ bà Nguyễn Thị H. là hộ trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp và có thu nhập ổn định từ sản xuất đất nông nghiệp tại địa phương”. Tuy nhiên, tại Bản vẽ sơ đồ nhà đất bổ túc hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ nông nghiệp của bà H. do Công ty trách nhiệm hữu hạn Thiết kế Xây dựng đo đạc Phúc Lộc Phát đo vẽ ngày 03/01/2018 thể hiện Thửa đất số 859 do bà H. quản lý, sử dụng là “đất trống”. Tại Biên bản hòa giải ngày 12/01/2017 do UBND phường LT. lập, ông T. và bà H. đã thống nhất cùng thuê cơ quan có thẩm quyền đo vẽ ranh đất, nhưng lại không thực hiện mà bà H. tự thuê đo vẽ nên tiếp tục tranh chấp. Như vậy, việc UBND Quận C. xác nhận tại Đơn đăng ký cấp GCNQSDĐ ngày 02/12/2017 của bà H. đối với diện tích 1.510m² đất là do bà H. sử dụng từ năm 1975, sử dụng ổn định cho đến nay, hiện tại không tranh chấp khiếu nại tại địa phương là không đúng với quá trình sử dụng đất thực tế của bà H. và ông T.

Vì vậy, UBND Quận C., Thành phố H. cấp GCNQSDĐ cho bà H. là không đúng theo quy định tại Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 3 và kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T.; sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 1908/2020/HC-ST ngày 09/11/2020 của TAND Thành phố H. theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T.

        Qua xem xét các chứng cứ và các nhận định phân tích nêu trên của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 3 và kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T.; sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 1908/2020/HC-ST ngày 09/11/2020 của TAND Thành phố H. theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Thế Anh T.

4

Toàn cảnh phiên toà phúc thẩm lần 2 ngày 25/03/2025

Viện cấp cao 3 đã phối hợp với TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức phiên toà rút kinh nghiệm đối với vụ án nêu trên với sự tham dự của đồng chí Nguyễn Đình Cúc – Phó Viện trưởng Viện cấp cao 3, đồng chí Nguyễn Văn Đảm - Viện trưởng Viện kiểm sát án hành chính, kinh doanh thương mại và đông đảo Kiểm sát viên, kiểm tra viên các ngạch.

1

Đồng chí Nguyễn Đình Cúc – PVT Viện cấp cao 3 và các Kiểm sát viên tham dự phiên tòa

Sau khi kết thúc phiên toà, ngày 28/3/2015, đơn vị đã tiến hành họp, rút kinh nghiệm chung theo hướng dẫn của Ngành. Qua thảo luận tại buổi họp, Lãnh đạo Viện cấp cao 3 đã kết luận những ưu điểm và các vấn đề cần phải rút kinh nghiệm đối với cán bộ công chức nghiên cứu hồ sơ, cũng như biểu dương tinh thần đấu tranh của Kiểm sát viên tại phiên tòa để thôi thúc, tạo động lực nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực chuyên môn, rèn luyện tính kiên trì, đấu tranh đến cùng của cán bộ, Kiểm sát viên trong đơn vị để bảo vệ công lý và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

3

Viện cấp cao 3 tổ chức họp rút kinh nghiệm sau phiên tòa

Như vậy, sau gần 05 năm kiên trì đấu tranh, Viện cấp cao 3 đã bảo vệ thành công Kháng nghị đối với vụ án nêu trên. Điều này không chỉ khẳng định quan điểm chỉ đạo đúng đắn Lãnh đạo Viện cấp cao 3; sự đồng lòng của cán bộ, Kiểm sát viên; mà còn thể hiện sự quyết tâm, bản lĩnh và tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của Kiểm sát viên tại phiên toà.

2

Kiểm sát viên Vũ Thanh Sơn kiểm sát việc xét xử tại phiên toà

Qua vụ án điển hình nêu trên, có thể thấy rằng Kháng nghị là một công cụ pháp lý quan trọng nhằm khắc phục những sai sót trong hoạt động xét xử của Tòa án. Khi phát hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án có dấu hiệu vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị để yêu cầu xét xử lại theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện cấp cao 3 luôn xác định đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm bảo vệ công lý, giữ gìn niềm tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp và hơn hết là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Chử Thị Định – Viện cấp cao 3